Chuyển tiền cho người khác có lấy lại được không?
2023-11-03T05:49:23-04:00
2023-11-03T05:49:23-04:00
https://luatsunhatrang.com.vn/chuyen-tien-cho-nguoi-khac-co-lay-lai-duoc-khong-56.html
/themes/default/images/no_image.gif
Luật Sư tại Nha Trang, Khánh Hòa - Chi nhánh Luật NEW KEY
https://luatsunhatrang.com.vn/uploads/logo-newkey-200.png
Thứ sáu - 03/11/2023 05:47
Tôi tên là Hùng, 59 tuổi! Năm 2014 tôi có nhắn tin qua lại với một cô gái 25 tuổi! Chúng tôi liên lạc qua mail và điện thoại! Tôi với cô ấy hay nói chuyện tình cảm với nhau và tôi hứa cho tiền cô gái ấy trả nợ . Sau đó tôi đã gửi tiền cho cô ấy hai lần (90 triệu và thêm 20 triệu nữa). Bây giờ cô ấy bảo đã có chồng và không muốn liên lạc vì tôi hứa mua nhà cho cô ấy mà không làm. Cô ấy cắt đứt liên lạc với tôi. Tôi muốn khởi kiện. Hỏi Tôi có đòi lại số tiền trên được không? Hành vi của cô ấy có phải là hành vi lừa đảo không? Hiện tại tôi có giữ tin nhắn điện thoại những hình ảnh giao dịch chuyển tiền qua ứng dụng tài khoản ngân hàng banking digital, mong luật sư tư vấn trong trường hợp này. Tôi xin cảm ơn.
CÔNG TY LUẬT TNHH NEWKEY CHI NHÁNH NHA TRANG xin gửi tới ông lời chào chân trọng. Cám ơn ông đã quan tâm, tin tưởng gửi thư tư vấn cho chúng tôi. Sau đây chúng tôi xin giải đáp những thắc mắc của quý khách như sau:
Theo như thông ông Hùng cung cấp, năm 2014 ông có nhắn tin qua lại, nói chuyện tình cảm với một cô gái qua mail và số điện thoại, ông có hứa cho tiền cô gái đó để trả nợ và ông đã gửi cho cô ấy tổng cộng 110 triệu đồng. Về bản chất, việc ông hứa và gửi cho cô gái tiền dưới góc độ quan hệ pháp luật Dân Sự, đây là quan hệ tặng cho tài sản giữa ông và cô gái đó, cụ thể như sau:
Thứ nhất, căn cứ theo Điều 119 BLDS 2015:
“1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.
Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp đữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.
2. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó”
Đồng thời căn cứ theo Điều 385 BLDS 2015 có đưa khái niệm hợp đồng: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.”
Từ việc ông đã hứa và đã thực hiện việc chuyển khoản cho cô gái qua nhiều lần chuyển khoản bằng tài khoản ngân hàng. Do đó, đối với đối tượng tài sản là số tiền 110 triệu đồng trong trường hợp tặng cho giữa ông Hùng và cô gái đó, không cần phải lập thành văn bản và cũng không cần phải đáp ứng các điều kiện quy định về hình thức của giao dịch dân sự là phải công chứng, chứng thực mà chỉ cần bằng qua lời nói, hành vi của cả hai đã tạo thành một hợp đồng tặng cho hợp pháp (căn cứ Điều 117 BLDS quy định hiệu lực của giao dịch dân sự).
Như vậy, giữa ông ông và cô gái đó đã có quan hệ pháp luật và đã có tồn tại hợp đồng tặng cho tài sản, theo đó kể từ khi nhận được tài sản chuyển giao từ ông,hợp đồng tặng cho tài sản sẽ có hiệu lực và cô gái đó sẽ có toàn quyền sở hữu của mình với số tiền trên.
Thứ hai, Căn cứ theo Điều 457 quy định về hợp đồng tặng cho tài sản: “Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận”
Theo quy định của BLDS 2015, hợp đồng tặng cho có hai loại phổ biến là tặng cho có điều kiện và tặng cho không có điều kiện.
Trong trường hợp tặng cho tài sản có điều kiện thì Căn cứ Điều 462 BLDS 2015 thì khi “. Bên tặng cho có thể yêu cầu bên được tặng cho thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ dân sự trước hoặc sau khi tặng cho. Điều kiện tặng cho không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.
2. Trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ trước khi tặng cho, nếu bên được tặng cho đã hoàn thành nghĩa vụ mà bên tặng cho không giao tài sản thì bên tặng cho phải thanh toán nghĩa vụ mà bên được tặng cho đã thực hiện.
3.Trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ sau khi tặng cho mà bên được tặng cho không thực hiện thì bên tặng cho có quyền đòi lại tài sản và yêu cầu bồi thường thiệt hại.”
Có thể thấy trong trường hợp này, theo như lời ông kể thì việc ông hứa và gửi tiền cho cô gái trả nợ xuất phát từ sự tự nguyện hoàn toàn, do cả hai bên không thỏa thuận, giao hẹn về nghĩa vụ hay điều kiện gì bên nhận phải làm để được tặng cho số tiền đó. Xem xét qua sự việc có thể khẳng định đây là hợp đồng tặng cho tài sản không có điều kiện.
Thứ ba, Căn cứ Điều 238 BLDS 2015 quy định khi thời điểm chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu của mình cho người khác thì “Khi chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu của mình cho người khác thông qua hợp đồng mua bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, hợp đồng chuyển quyền sở hữu khác theo quy định của pháp luật hoặc thông qua việc để thừa kế thì quyền sở hữu đối với tài sản của người đó chấm dứt kể từ thời điểm phát sinh quyền sở hữu của người được chuyển giao”.
Như vậy, từ thời điểm ông gửi chuyển tiền cho cô gái , quyền sở hữu của ông đối với số tiền 110 triệu đồng đã chấm dứt đồng thời quyền sở hữu được chuyển giao sang cho cô gái. Ông không có quyền sở hữu đối với số tiền này nữa. Việc ông khởi kiện cô gái vì hành vi lừa đảo yêu cầu Tòa án nhân dân có thẩm quyền giải quyết sẽ không có căn cứ pháp luật và có thể sẽ bị bác đơn khởi kiện, từ chối giải quyết.
CÔNG TY LUẬT TNHH NEWKEY CHI NHÁNH NHA TRANG xin được tư vấn với ông Hùng trong tình huống nêu trên. Rất mong nhận được ý kiến của ông để Công ty có thể hỗ trợ ông tốt hơn các vấn đề liên quan đến pháp luật trong cuộc sống.
Mọi chi tiết xin liên hệ/zalo: 0368050579